Nam Kỳ (
chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước
Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước
Việt Nam. Tên gọi này do vua
Minh Mạng đặt ra năm
1832. Sau khi Việt Nam giành được độc lập năm 1945, Nam Kỳ bắt đầu được gọi là
Nam Bộ, trong giai đoạn
1948–
1954 thường gọi là Nam Việt.Trong thời kỳ
Pháp thôn tính Việt Nam, theo chính sách "
chia để trị", Việt Nam bị chia cắt thành 3 xứ riêng biệt: xứ thuộc địa Nam Kỳ và hai xứ bảo hộ
Bắc Kỳ và
Trung Kỳ. Danh xưng Nam Kỳ được
chính quyền Liên bang Đông Dương của Pháp duy trì cho đến năm 1945.
Quốc gia Việt Nam và
Việt Nam Cộng hòa cũng dùng tên gọi
Nam phần, vốn đã được sử dụng từ năm 1947 trong giai đoạn sau của
Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Diện tích Nam Kỳ là 67.293,1 km².Hiện nay, danh xưng này không còn được sử dụng về mặt hành chính do mang tính phân biệt, gây chia rẽ vùng miền (trừ khi nói về sự kiện hoặc địa danh lịch sử). Đôi khi được một số người miền Nam dùng cách gọi "Nam Kỳ" để phân biệt họ với những người có gốc gác từ
miền Bắc Việt Nam (mà họ gọi là "Bắc Kỳ"). Tuy nhiên, cách dùng từ kỳ thị này có phần không hợp lý, vì theo các sử sách ghi lại, nước Việt Nam vốn bắt nguồn từ vùng
Đồng bằng sông Hồng (miền Bắc ngày nay). Lãnh thổ Việt Nam được mở rộng xuống phía nam như hiện nay do sự thu phục nước
Chăm Pa, qua các thời kỳ mà dân tộc Kinh dần di cư về phần lãnh thổ phía nam, xét trong khoảng 500 năm trước thì mọi người Kinh ở miền Nam vốn đều có tổ tiên là người miền Bắc chứ không có sự phân biệt gốc gác vùng miền.